Bệnh lao là gì?
Bệnh lao là bệnh gây ra do tình trạng nhiễm vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis (MTB), thường gặp nhất ở phổi nhưng cũng có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương (lao màng não), hệ bạch huyết, hệ tuần hoàn, hệ niệu dục, xương và khớp.
Ở trẻ em, bệnh lao chiếm tỷ lệ 10 – 15% trong số những trường hợp bệnh lao mới mắc hàng năm.
Con đường lây nhiễm
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Trẻ bị lao thường có nguồn lao từ người thân (trong các gia đình nghèo, điều kiện sống chật chội và ở những trẻ bị suy dinh dưỡng hệ thống miễn dịch suy giảm) chiếm đến 70% và chủ yếu lây qua đường hô hấp. Ngoài ra, trẻ còn có thể bị lây bệnh ở trường học, ngoài cộng đồng.
Nguy cơ từ nhiễm trở thành bệnh là 10%, thường từ 5-15% trong 10 năm sau khi bị nhiễm lao. Nguy cơ này tùy thuộc nhiều yếu tố như tuổi khi nhiễm lao, tình trạng dinh dưỡng của trẻ, tình trạng vi khuẩn lao của nguồn lây tiếp xúc, thời gian và cường độ tiếp xúc nhiều hay ít.
Các thể lao thường gặp ở trẻ và triệu chứng kèm theo
Lao sơ nhiễm
Đây là thể lao thường gặp nhiều nhất. Có thể gặp ở trẻ từ 0-14 tuổi, nhưng thường xảy ra ở trẻ em dưới 5 tuổi và không tiêm phòng BCG (vacxin phòng lao).
Sơ nhiễm lao thông thường không có triệu chứng hoặc có triệu chứng cảm cúm thoáng qua hay nóng sốt mệt mỏi, chán ăn hoặc ít khi có triệu chứng giống như thương hàn, sốt cao, mệt mỏi nhưng không rối loạn tiêu hóa.Có trường hợp có biểu hiện ở niêm mạc và ngoài da như: hồng ban nốt nổi 2-3 đợt hay viêm kết giác mạc.
Trẻ có thể tự khỏi nếu lao sơ nhiễm tiến triển nhẹ và sức đề kháng của trẻ cao. Ngược lại nếu lao sơ nhiễm tiến triển nặng thì cos các biến chứng nặng hơn như lao phổi, xẹp phổi, giãn phế quản, hay các dạng bệnh lao nặng hơn như lao màng não, lao màng bụng, lao xương, lao thận…
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Lao cấp tính
Bệnh có thể xảy ra ở các lứa tuổi, nhưng nhiều nhất ở trẻ nhỏ không tiêm vaccin BCG, trẻ dưới 2 tuổi. Trẻ càng lớn thì tần suất mắc bệnh càng ít.
Lao màng não, lao kê cấp tính là 2 biến chứng nặng và sớm của sơ nhiễm lao dễ đưa đến tử vong nếu không được chẩn đoán, điều trị sớm và để lại di chứng trầm trọng nếu chẩn đoán trễ như di chứng tâm thần (thiểu năng trí tuệ, rối loạn tính tình, động kinh); yếu liệt nửa người, tay chân co rút, mù mắt, điếc…
– Lao kê là lao cấp ở phổi, xuất hiện trong những tuần lễ đầu sau sơ nhiễm lao với triệu chứng sốt cao, mạch nhanh, ói mửa, đau bụng, tiêu chảy, không có nốt hồng ban trên bụng (khác thương hàn) và luôn luôn có dấu hiệu hô hấp khó thở, tím tái. Trẻ bị lao kê thường dễ dẫn đến lao màng não.
– Lao màng não xảy ra từ 2-12 tháng sau sơ nhiễm lao, báo hiệu với triệu chứng sốt nhẹ, thay đổi tính nết. Sau đó 1 tuần, sốt 380C, nhức đầu, ói mửa, khám thấy có cứng cổ và đôi khi có dấu hiệu tổn thương thần kinh, co giật, hôn mê, lé mắt, động kinh, sụp mí mắt.
Lao đường hô hấp sau sơ nhiễm
Lao đường hô hấp thường gặp ở trẻ lớn, gần tuổi dậy thì hơn là trẻ nhỏ.
Lao đường hô hấp ở trẻ bao gồm:
Ảnh minh họa: Nguồn internet
– Lao màng phổi: Lao màng phổi hiếm gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi và thường xảy ra ở trẻ lớn, 6 tháng sau sơ nhiễm lao. Lao màng phối có triệu chứng như mệt, sút cân, ho, đau tức ngực, x-quang phổi cho thấy tràn dịch.
– Lao phổi: Mức độ mắc lao phỏi ở trẻ tùy theo tuổi khi bị sơ nhiễm lao, chỉ 4% khi sơ nhiễm ở trẻ em dưới 5 tuổi và xảy ra khi trẻ em lớn hơn 10 tuổi. Trái lại, 10% ở trẻ em lớn từ 12-14 tuổi bị sơ nhiễm và lao phổi xảy ra từ 1-2 năm. Lao phổi có triệu chứng như sốt nhẹ về chiều, mệt, chán ăn, gầy, tức ngực, ho đờm hay có máu.
Lao ngoài phổi
Lao ngoài phổi hường là biến chứng chậm hơn sau sơ nhiễm lao.
Các dạng lao ngoài phổi: Lao cột sống, lao xương – khớp, lao hệ niệu, lao hạch, lao ruột
Điều trị lao ở trẻ em
Trẻ em mắc lao sơ nhiễm cần được điều trị bằng thuốc kháng lao. Trẻ được uống thuốc lao hàng ngày, trong thời gian ít nhất 6 tháng.
Thuốc lao có nhiều tác dụng phụ, do đó trẻ cần được theo dõi, tái khám đầy đủ theo hẹn của bác sĩ trong quá trình dùng thuốc để đánh giá kết quả điều trị cũng như gải quyết những tác dụng phụ của thuốc lao nếu có.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Phòng bệnh
Cho trẻ chích ngừa lao theo chương trình tiêm chủng của quốc gia. Sau tiêm phòng, ở thời kỳ chưa có miễn dịch không nên để trẻ tiếp xúc với nguồn lây.
Nếu trẻ đã có miễn dịch rồi cũng hết sức hạn chế không để trẻ cùng sống hay tiếp xúc với người ho khạc ra vi trùng lao, đồng thời tránh các bệnh truyền nhiễm khác làm suy sụp miễn dịch lao.
Ngoài tiêm BCG, trẻ cần được tiêm chủng đầy đủ các loại vaccin phòng bệnh và có chế độ nuôi dưỡng thích hợp với từng lứa tuổi.
Các bậc cha mẹ cần tránh để trẻ bị suy dinh dưỡng và nếu trong gia đình có người bị lao thì phải cách ly trẻ khỏi nguồn lây. Giữ gìn môi trường sống tốt, nhà cửa thoáng đãng, sạch sẽ…
Nếu trẻ có những dấu hiệu của bệnh lao (ho sốt kéo dài, sút cân hoặc không lên cân, ra mồ hôi trộm…) thì cha mẹ nên đưa trẻ đi khám ở các cơ sở y tế chuyên khoa để có chẩn đoán và điều trị phù hợp.
Khi trẻ mắc bệnh lao mà không được chẩn đoán sớm và điều trị đúng, sẽ để lại những hậu quả khó lường về sức khỏe và tính mạng. Khi trẻ có triệu chứng nghi bị lao thì cần đưa ngay đến cơ sở y tế chuyên khoa để khám và điều trị đúng theo phác đồ của Chương trình chống lao Quốc gia.
Theo NTD