Dù đã chiếm giữ toàn bộ Hoàng Sa, Trung Quốc vẫn không nhận được sự công nhận của cộng đồng quốc tế về chủ quyền của họ đối với Hoàng Sa. Và như vậy, thực sự Hoàng Sa vẫn đang là một vùng lãnh thổ tranh chấp.
Năm 2014 là thời điểm đánh dấu tròn 40 năm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa,
một quần đảo có vị trí quan trọng trên biển Đông đang trong tầm kiểm
soát của Việt Nam Cộng hòa đã bị mất vào tay Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa. Từ đó cho đến nay, biển Đông chưa được yên tĩnh, những sự kiện nối
tiếp nhau kéo dài từ biển Đông cho tới biển Hoa Đông đã khiến nhiều
người ví von khu vực Đông Á hiện nay như đang nằm trên một thùng thuốc
súng.
Vì sao Trung Quốc dùng vũ lực để tấn chiếm Hoàng Sa vào thời điểm năm
1974 vẫn là một câu hỏi có nhiều câu trả lời khác nhau. Và việc tìm
hiểu và lý giải quá khứ luôn là một phương cách để dự báo cho tương lai.
Bài viết này nhằm đưa ra một cách lý giải về lý do và mục đích mà Trung
Quốc chiếm Hoàng Sa năm 1974.
Vì sao các quốc gia sử dụng sức mạnh quân sự trong các tranh chấp lãnh thổ?
Khi phân tích về lý do cũng như thời điểm mà một quốc gia sử dụng sức
mạnh quân sự để giải quyết tranh chấp lãnh thổ nào đó, nhiều học giả
cho rằng đó là do vị thế của quốc gia đó trong tranh chấp bị yếu đi. Sự
yếu đi về vị thế này làm cho quốc gia cảm thấy mình sẽ không còn lợi thế
khi “mặc cả lợi ích” trong việc giải quyết tranh chấp (bargaining
power).
Lợi thế trong cuộc “mặc cả lợi ích” được M. Taylor Fravel, Phó giáo
sư về Khoa học chính trị, Đại học MIT, định nghĩa bao gồm: i) Diện tích
lãnh thổ tranh chấp mà quốc gia thực sự chiếm giữ; ii) Sức mạnh quân sự
của quốc gia trong đối sánh với sức mạnh quân sự của đối phương trên
vùng tranh chấp.
Khi một quốc gia thấy rằng vị thế của đối phương trong tranh chấp
ngày càng tăng lên, đồng nghĩa với việc vị thế của họ ngày càng suy
giảm, thì rất có khả năng quốc gia đó sẽ tiến hành biện pháp quân sự để
khôi phục vị thế của họ. Thậm chí, để gia tăng vị thế của mình, họ còn
có thể sử dụng biện pháp quân sự để có thể kiểm soát toàn bộ khu vực
tranh chấp.
Mục đích Trung Quốc chiếm Hoàng Sa
Khi thành lập 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kiểm soát rất ít
trong số 4 quần đảo, bãi ngầm tại biển Đông, cũng như không kiểm soát
được khu vực đảo Đài Loan. Trung Quốc lúc này đã phải đối đầu với các
thách thức, chẳng hạn từ chính quyền Quốc Dân Đảng với sự hỗ trợ của Hoa
Kỳ, cũng như trên các đảo ngoài khơi khác tại khu vực biển Đông và biển
Hoa Đông.
Năm 1951, Trung Quốc đã chính thức đưa ra yêu sách về chủ quyền của
họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng bị nhiều quốc gia
khác phản đối. Tuy nhiên, sau này, Trung Quốc đã quyết định dùng sức
mạnh để chiếm đoạt hoàn toàn Hoàng Sa năm 1974.
Trung Quốc đã thực hiện việc sử dụng vũ lực vào một bối cảnh khiến vị
trí của họ trong tranh chấp đã bị suy giảm khi: i) Quân đội Việt Nam
Cộng hòa đã tích cực mở rộng sự có mặt trên Hoàng Sa; ii) và các lợi ích
ngày càng thấy rõ của biển khơi, đặc biệt là tài nguyên dầu mỏ, khi thế
giới đang bước vào cuộc khủng hoảng dầu mỏ những năm 1970.
Trung Quốc đã chiếm được Hoàng Sa nhưng không được quốc tế công nhận
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo chính, nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen)
nằm ở phía Tây Nam quần đảo, nhóm An Vĩnh (Amphitrite) nằm ở phía Đông
Bắc. Năm 1956 quân đội Trung Quốc đã chiếm đảo Phú Lâm (Woody) thuộc
nhóm An Vĩnh (Amphitrite). Trước đó, quân đội Pháp đã chiếm đảo Hoàng Sa
(Pattle) thuộc nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen), rồi đến năm 1956, quân đội
Việt Nam Cộng hòa đã thay chân Pháp kiểm soát đảo này.
Trung Quốc, khi nhìn thấy những lợi ích của các vùng biển này, đã
quyết định phải kiểm soát được tất cả các đảo thuộc Hoàng Sa, vì trước
đó, khoảng giữa những năm 1950, các đoàn tàu thương mại của Trung Quốc
đã buộc phải đi qua vùng biển cạnh khu vực nhóm đảo Nguyệt Thiềm
(Crescen). Năm 1959, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã tăng cường kiểm soát
chặt chẽ các đảo này, buộc các ngư dân Trung Quốc phải tránh xa khu vực
nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen) này.
Tuy Việt Nam Cộng hòa không tỏ ra có hành động đe dọa nào đối với
Trung Quốc tại nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite), với ý định mỗi bên sẽ kiểm
soát các khu vực biển thuộc xung quanh nhóm đảo mà họ đang kiểm soát,
nhưng các hành động này của Việt Nam Cộng hòa đã làm suy giảm lợi thế
của Trung Quốc. Và, vì thế, Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh quân sự như
một biện pháp để phục hồi lại vị thế lợi ích của mình tại đây.
Vào đầu những năm 1970, các lợi ích từ tài nguyên biển trên biển Đông
trở nên rất quan trọng, đặc biệt tại các khu vực mà các bên tranh chấp.
Năm 1970, Philippines hoàn thành việc khảo sát địa chấn tại các vùng
nước xung quanh Trường Sa, và năm 1971 bắt đầu tiến hành khoan thăm dò.
Trong khi đó, Việt Nam Cộng hòa cũng bắt đầu việc khai thác nguồn dầu
khí ngoài khơi, và tháng 7/1973 Sài Gòn đã ký kết 8 hợp đồng khoan thăm
dò tại những nơi được cho là có nhiều dầu mỏ trên biển Đông. Tháng 1 và
tháng 3/1973, Việt Nam Cộng hòa cũng đã cho tiến hành khảo sát địa chấn
tại khu vực xung quanh nhóm đảo Nguyệt Thiềm.
Còn tháng 12/1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng công bố cho thấy
triển vọng của các giếng dầu ở ngoài khơi Vịnh bắc Bộ, phía bắc của quần
đảo Hoàng Sa.
Với những giá trị kinh tế của các nhóm đảo ngoài khơi ngày càng gia
tăng, các quốc gia khác cũng bắt đầu giành lấy những cấu trúc tại Hoàng
Sa, Trường Sa, ở những nơi mà Trung Quốc hoàn toàn không có sự hiện diện
nào. Để củng cố cho các yêu sách của mình, Philippines đã chiếm 5 đảo
và đá tại Trường Sa trong khoảng thời gian từ năm 1970 đến năm 1971. Đây
là lần đầu tiên Philippines có sự hiện diện tại vùng lãnh thổ tranh
chấp này.
Tháng 9/1973, Việt Nam Cộng hòa tuyên bố sáp nhập quần đảo Trường Sa
vào địa bàn tỉnh Phước Tuy. Các hành động của các quốc gia này chỉ trong
chưa đầy 3 năm đã đẩy Trung Quốc vào thế bất lợi trong tranh chấp này.
Để đáp lại những hành động đó, Trung Quốc quyết định mở rộng sự hiện
diện của mình trên những hòn đảo ngoài khơi biển Đông, nơi có ít sự trợ
giúp của các lực lượng hải quân của các quốc gia khác.
Đặc biệt, sau cuộc gặp lịch sử giữa Mao Trạch Đông với Nixon vào đầu
năm 1972, và sự kiện Mỹ rút ra khỏi Việt Nam sau Hiệp định Paris đầu năm
1973, Bắc Kinh đã thấy trước một khả năng mới: Họ có thể loại trừ khả
năng can thiệp của Hải quân Mỹ nếu cưỡng chiếm các hòn đảo thuộc do Việt
Nam Cộng hòa quản lý.
Trung Quốc đã sử dụng các ngư dân để gia tăng sự hiện diện của họ
trên vùng biển nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen) từ năm 1973. Ngày 9/1/1974,
các ngư dân Trung Quốc từ đảo Hữu Nhật (Robert) áp sát tới gần đảo Hoàng
Sa (Pattle) – nơi mà Việt Nam Cộng hòa đang đóng quân trên đó. Ngày
11/1, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc công khai thách thức Tuyên bố
tháng 9/1973 của Việt Nam Cộng hòa.
Giữa tháng 1/1974, các tình huống đối đầu trở nên căng thẳng hơn.
Tiếp theo các tuyên bố của Bắc Kinh, Sài Gòn gửi thêm một số tàu chiến
tới khu vực nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen), trục xuất các ngư dân Trung
Quốc ra khỏi khu vực này. Từ đó đã dẫn tới sự kiện ngày 19-20/1/1974,
mà sau đó Trung Quốc đã giành được quyền kiểm soát trên toàn bộ quần đảo
Hoàng Sa bằng sức mạnh quân sự của mình.
Kết luận
Mục đích làm gia tăng vị thế lợi ích là mô tả rõ nhất lý do vì sao và
khi nào Trung Quốc sử dụng vũ lực trong các tranh chấp lãnh thổ của họ
với các quốc gia khác. Hoàng Sa là một ví dụ cụ thể, Trung Quốc đã cho
thấy sự quyết đoán của họ khi vị thế của họ trong tranh chấp bị sụt
giảm, đặc biệt khi gặp một đối thủ không mạnh hoặc khi Trung Quốc kiểm
soát rất ít, hoặc gần như chưa kiểm soát phần lãnh thổ đang tranh chấp
đó, Trung Quốc sẽ tìm cách ra tay.
Tuy nhiên cho dù đã chiếm giữ toàn bộ Hoàng Sa, Trung Quốc vẫn không
nhận được sự công nhận của cộng đồng quốc tế về chủ quyền của họ đối với
Hoàng Sa. Và như vậy, thực sự Hoàng Sa vẫn đang là một vùng lãnh thổ
tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp như vậy cần phải tuân thủ các quy
định của luật pháp quốc tế về tranh chấp lãnh thổ.
Thế nhưng, những sự kiện đã xảy ra đối với Hoàng Sa năm 1974 luôn là
bài học kinh nghiệm xương máu cho không chỉ Việt Nam, mà còn cho tất cả
những quốc gia có những tranh chấp lãnh thổ biển với một Trung Quốc hiện
tại đầy tham vọng.
Hoàng Việt