Các khối u lành tính ở buồng trứng

0
39
Khối u BT lành tính là loại thường gặp nhất, chiếm tỉ lệ 3,6% các bệnh phụ khoa. Bệnh phát triển âm thầm, lặng lẽ, có thời gian  im lặng kéo dài, nhưng khi chuyển sang ác tính thì phát triển rất nhanh. Khối u lành tính thường được gọi là U nang BT.. U nang BT được chia làm hai loại: U nang cơ năng và u nang thực thể.

U nang cơ năng

 

U nang cơ năng là các khối U có nguồn gốc từ các nang noãn xuất hiện do rối loạn  sinh lý  trong quá trình phát triển chứ không phải là do những tổn thương thực thể của BT. Như vậy những khối U nà chỉ  tồn tại trong một thời gian nhất định rồi biến mất. Vì vậy gọi là U nang cơ năng

 

U nang cơ năng bào gồm 3 loại: nang bọc noãn, nang hoảng thể và nang hoàng tuyến.

 

a. Nang bọc noãn (nang trứng): là nang trứng đã phát triển và trưởng thành (chín) nhưng không phóng noãn ( rụng trứng) được, các tế bào hạt tiếp tục phát triển và chế tiết làm cho nang noãn to lên, lượng dịch được tích lũy bên trong ngày càng nhiều tạo thành nang.

 

b. Nang hoàng thể (phần còn lại sau khi trứng được phóng thích): bình thường sau khi trứng rụng, các tế bào hạt của nang noãn chế tiết Progesteron (nội tiết buồng trứng) tạo thành hoàng thể phát triển đến cực đại vào khoảng ngày thứ 21 – 23 của vòng kinh sẽ thoái triển  dần rồi teo đi để trở thành một đám thoái hóa kính mầu vàng nên được gọi là thể vàng. NHư vầy nang hoàng thể là do hoàng thể không những không teo đi mà ngược lại còn phát triển mành thành một nang mỏng chứa đầy dịch bên trong. Như vậy nang hoàng thể không teo đi mà lại phát triển quá mức, dịch bên trong được tích laị  mà tạo thành nang.

 

c. Nang hoàng tuyến: Là sự kích thích quá mức của các nang bọc noãn nên các nang này không phóng noãn mà lại bị hoàng thể hóa, là loại nang cơ năng ít gặp nhất. Tỷ lệ cao nhất là gặp trong chửa trứng. Nguyên nhân chính tạo nên nang hoàng tuyến là do BT bị kích thích quá mức do nồng độ HCG quá cao trong máu như chủa nhiều thai, chửa trứng và là bệnh u nguyên bào nuôi hoặc dùng HCG liều cao để gây phóng noãn trong các trường hợp vô sinh. Nang hoàng tuyến thường gặp ở cả hai bên BT KT lớn từ 15 – 20cm, do nhiều nang nhỏ hợp thành, bên trong chưa dịch mầu vàng nhạt, đôi khi lẫn máu giống như dịch của nang hoàng thể. Thông thường sau khi nạo hết trứng hoặc điều trị khỏi bệnh u nguyên bào nuôi  thì nang cũng tiêu đi. Trong điều trị bệnh u nguyên bào nuôi, nếu còn nang hoàng tuyến nghĩa là còn tế bào nuôi đang phát triển.

 

 

d. Các biến chứng của nang cơ năng:

 

– Vỡ nang: do vỏ mỏng nên khi thăm khám hoặc có áp lực đè mạnh lên bụng sẽ gây vỡ nang. Nếu vỏ nang có mạch máu bị tổn thương  sẽ gây chẩy máu , bệnh cảnh giống chửa ngoài TC vỡ và phải xử trí như một GEU vỡ, lụt máu trong ổ bụng.

 

– Chảy máu trong nang là một tình trạng thường gặp và làm bệnh nhân đau bụng mà mức độ đau phụ thuộc vào tình trạng chẩy máu nhiều hay ít.

 

– Xoắn nang : khi cuống nang dài, nang di chuyển và bị xoắn.

 

– Trong những trường hợp nang bọc noãn và nang hoàng thể có kích thuốc nhỏ 3 – 5cm, dễ chẩn đoán nhầm với chửa ngoài tử cung (GEU)

 

e. Điều trị Trong những nang bọc noãn và những nang hoàng thể cần theo dõi 2 – 3 tháng, nếu sau thời gian theo dõi mà khối  u không mất đi mà vẫn tồn tại thì nên mổ.

 

Trong thời gian theo dõi, có thể dùng thuốc tránh thai để BT nghỉ ngơi, không chịu kích thích của tuyến yên, nang sẽ thoái triển.

 

Nang hoàng tuyến thì phải điều trị bệnh chính là chủa trứng hoặc u nguyên bào nuôi.

 

Không nên chọc hút nang vì dịch chẩy ra ổ bụng sẽ gây dính.

 

U nang thực thể buồng trứng

 

U nang thực thể BT là những tổn thương giải phẫu từ nhu mô  bình thường của BT trở thành những khối U thực thể, tiến triển âm thầm, kéo dài trong nhiều năm. U nang thực thể BT gồm ba loại U nang nước, u nang nhầy và u nang bì.

 

a. U nang nước:  Là một túi chứa có cuống dài, vỏ mỏng, di động, mặt ngoài trơn nhẵn, bên trong chứa nhiều dịch trong, đôi khi có nhiều thùy. vỏ nang thường trơn nhẵn và mỏng nên dễ vỡ. Mặt trong của vỏ nang nhẵn, đôi khi có u nhú nhỏ và những u nhú này có thể xuất hiện ở mặt ngoài của vỏ nang. Nếu nang đã có những u nhú nhỏ thì đã bị ung thư hóa. Nếu số lượng nhú càng nhiều thì nguy cơ bị ung thư hóa càng cao. Đôi khi dịch trong nang có mầu nâu hoặc mầu Socola là do chẩy máu trong nang.

 

b. U nang nhầy: là loại khối U có vỏ dầy hơn, mầu trắng hoặc trắng ngà có cấu trúc giống như da. Trong nang chứa chất dịch nhầy trong, bên trong có vách ngăn khối u thành nhiều thùy nhỏ. U nang nhầy rất thường gặp, kích thước thay đổi từ vài trăm gram đến hàng chục kg, có thể dính vào các tạng xung quanh. Mức độ ung thư hóa rất thấp vì lớp vỏ giống tổ chức da là loại đã biệt hóa cao, nhưng nếu khối u bị vỡ hoặc các khối U xâm nhập vào ổ bụng thì sẽ tiết các chất nhầy gây bệnh nhầy dính phúc mạc là hậu quả của một sự lan tràn của một u nang nhầy ở mức độ ung thư thấp  (borderline).

 

 

c. U nang bì hay còn gọi là u quái: là loại u lành tính, chiếm khoảng 10% tổng các khối U BT, có thể gặp ở các bé gái, trẻ vị thành niên, người trong độ tuổi sinh đẻ và cả người già. Vỏ khối u dầy, trơn láng, có lẫn những sợi cơ. Lớp vỏ bên trong có cấu trúc giống như da . Kích thước khối U thường không to, có ĐK < 10 cm, nhưng nặng nên dễ gây xoắn. Thường là một bên, nhưng có khoản 10 – 20% là khối u gặp ở cả hai bên. Trong nang chứa các tổ chức của da đã biệt hóa cao như lông, tóc, móng, răng, chất bã đậu. Cũng có thể thấy các tổ chức của xương, sụn hoặc một chất trắng như não hay thần kinh. Nguồn gốc khối U là từ lá thai ngoài. Nếu khối u chứa những tổ chức non xuất phát từ lá thai trong hay lá thai giữ ( tế bào mầm), chưa biệt hóa ( như tổ chức của bào thai: thần kinh, tuyến giáp) thì nguy cơ bị ung thư cao.

 

Bệnh thường phát triển âm thầm, lặng lẽ gần như không có triệu chứng, chỉ được phát hiện một cách tình cờ như khám định kỳ hay siêu âm ổ bụng mà phát hiện ra. Cũng có khi biểu hiện của một bệnh cảnh cấp cứu ngoại khoa ở bụng do xoắn cuống nang, hoặc do biến chứng của khối u như chèn ép gây đau hay bí trung, đại tiện. Thông thường người bệnh chỉ phát hiện được khi khối U đã to , kích thước lớn nên tự sờ thấy hoặc được khám sức khỏe hay siêu âm kiểm tra mà phát hiện được.

 

d. Biến chứng:

 

– Xoắn cuống nang là một cấp cứu thường gặp trong phụ khoa. Bệnh hay xẩy ra ở những trường hợp khối u có cuống dài, có ĐK khoảng 8 – 10 cm, vì khối u nhỏ, lại có cuống dài nên dễ bị di động, khối U nặng dễ bị xoắn. Tất các các khối u đều có thể bị xoắc nhưng u nang bì gặp nhiều hơn. Nếu được chẩn đoán sớm, xử trí kịp thời tiên lượng tốt. Nếu chẩn đoán muộn, khối U vỡ hoặc hoại tử, bệnh nhân bị nhiễm độc nặng có nguy cơ dẫn đến tử vong.

 

– Vỡ nang là biến chứng ít gặp và nếu xẩy ra thì tỉ lệ cao nhất là u nang nước vì có vỏ mỏng, là hậu quả của xoắn nang mà không được cấp cứu kịp thời, hoặc khi thăm khám thô bạo, hoặc chấn thương ở vùng bụng, cũng có thể gặp sau giao hợp.

 

– Có thể gây vô sinh, sẩy thai, đẻ non hay cản trở cuộc đẻ gây đẻ khó.

 

– Có khả năng chuyền thành ung thư.

 

– ĐIều trị phải mổ cắt bỏ u càng sớm càng tốt để tránh các biến chứng.

 

theo NTD

Các khối u lành tính ở buồng trứng

 

Theo NTD