ĐƯỜNG TINH
Đường tinh bao gồm mào tinh, túi tinh, ống tinh, ống phóng tinh và niệu đạo.
Trong tinh hoàn, màng đáy của các ống tinh chứa mô liên kết và đàn hồi, có hai loại tế bào Sertoli à tế bào sinh tinh.
Tế bào Sertoli nâng đỡ và chế tiết các dưỡng chất nuôi dưỡng tế bào mầm và tinh trùng. Tế bào sinh tinh từ tế bào mầm sẽ phát triển và biệt hóa để tạo thành tinh trùng. Trong mô liên kết nằm giữa các ống sinh tinh, có tế bào Leydig tiết ra testosterone.
Ở đỉnh mỗi tiểu thùy, các ống sinh tinh trở nên thẳng và hội tụ lại tại trung thất tạo thành một mạng lưới thông nhau gọi là ống xuất. Có 12 đến 20 ống xuất tập trung thành hình nón và đổ vào mào tinh. Tế bào sinh tinh được hình thành ở mỗi tiểu thùy, có chức năng sản xuất tinh trùng và có nhiều ống sinh tinh. Cùng với mạng tinh, các ống sinh tinh chập lại thành một ống thẳng chạy từ mỗi đầu của tiểu thùy đổ vào mào tinh hoàn tại nón xuất và tế bào sinh tinh được bao quanh bởi tế bào Sertoli.
– Mào tinh hoàn: nằm phía sau trên của tinh hoàn do một ống rất dài (tới 6m) cuộn lại, đầu trong nối với nón xuất, đầu ngoài là ống sinh tinh. Mào chụp lên tinh hoàn giống như một cái mũ lưỡi trai hoặc như hình mào gà.
– Ống tinh (còn gọi là tinh quản, ống dẫn tinh), đi trừ mào tinh đến ống phóng tinh: dài từ 40 – 50 cm, rộng 2 mm nhưng lòng ống hẹp (0,5mm), có thành dày, sờ thấy rắn, nằm trong thừng tinh cùng với động tĩnh mạch thừng tinh.
Phôi thai học: từ tuần thứ 7, tuyến sinh dục nguyên thủy (gonad) bắt đầu biệt hóa để trở thành nam hay nữ (theo gen di truyền giới tính). Tinh hoàn đi xuống bìu từ tháng thứ 3 và hoàn tất vào tháng thứ 8. Song song với quá trình biệt hóa tinh hoàn, các ống sinh dục cũng biệt hóa: ống trung thận (Wolff) biệt hóa thành mào tinh, ống dẫn tinh, túi tinh và ống phóng tinh. Ống cận trung tận (Mueler) thoái hóa chỉ để lại vài dấu tích và mấu phụ tinh hoàn và túi bịt tiền liệt.
Đường đi của ống tinh có thể chia làm 6 đoạn: mào tinh, thừng tinh, ống bẹn, chậu hông, sau bàng quang và trong tuyến tiền liệt. Đoạn cuối ống dẫn tinh dãn rộng và thắt khúc nên được gọi là bóng ống dẫn tinh, trong lòng có nhiều túi thừa. Bóng tinh là nơi lưu giữ tinh trùng. Đoạn cuối của ống dẫn tinh kết hợp với ống tiết của túi tinh tạo thành ống phóng tinh, có chiều dài khoảng 1,5 đến 2 cm. Tại chỗ bắt đầu của ống phóng tinh, ở mặt sau gần đáy tuyến tiền liệt, đường kính ngang của ống từ 1,5 – 2 cm rồi nhỏ dần đi trong tuyến tiền liệt theo hướng xuống dưới, và ra trước để đổ vào trong niệu đạo bằng hai lỗ nhỏ nằm trên ụ núi.
Mạch máu nuôi ống dẫn tinh là một nhánh của động mạch bàng quang trên, cung cấp máu cho toàn bộ chiều dài ống dẫn tinh, sau đó đi vào mặt trước túi tinh. Máu từ ống dẫn tinh đoạn chậu và túi tinh đổ vào đám rối tĩnh mạch chậu. Bạch huyết đổ vào các hạch chậu trong chậu ngoài.
Thần kinh xuất phát từ đám rối thần kinh chậu, kèm theo những dây thần kinh ly tâm chu yếu từ đám rối giao cảm hạ vị.
Túi tinh: nằm ngoài ống dẫn tinh dài khoảng 5 cm, rộng nhất khoảng 2 cm, dung tích 5ml. Túi tinh là một ống cuộn, có nhiều chỗ phình, được lót bởi lớp biểu mô trụ có chân đế, có lông. Túi tinh và bóng tinh nằm sau bàng quang. Niệu quản chui vào bàng quang ở phía trong, ngang đầu túi tinh. Túi tinh và bóng tinh hợp nhất tạo thành ống phóng tinh.
Thừng tinh: là một ống chứa các thành phần từ bìu qua ống bẹn vào trong ổ bụng chứa ống dẫn tinh, các động mạch và tĩnh mạch, bạch mạch và thần kinh, vì vậy, khi can thiệp vào thừng tinh dễ sang chấn các thành phần liên quan trong thừng tinh.
Niệu đạo là một ống nằm trong dương vật, nối từ bàng quang đến lỗ sáo ở qui đầu. Túi tinh đổ vào niệu đạo.
Bìu: được chia thành 2 túi bằng một vách mô liên kết, là tổ chức nâng đỡ che phủ tinh hoàn và giúp điều hòa nhiệt độ tinh hoàn do sự co hay giãn các lớp cơ bìu, rét thì co lại, nóng thì giãn ra.
Động mạch xuất phát từ động mạch đùi, thẹn và thượng vị dưới. Các mạch máu, thần kinh chạy song song với nếp ngang bìu và không vượt qua đường giữa. Mặt sau bìu được cung cấp máu từ các nhánh sau bìu của mạch máu và thần kinh đáy chậu vì vậy rất phong phú, dễ bị giãn tĩnh mạch.
Theo NTD