Giang mai là một bệnh lây truyền qua đường tình dục do xoắn khuẩn Treponema pallidum gây ra. Đường lây truyền của bệnh giang mai hầu như luôn luôn là qua đường tình dục.Có những trường hợp lây ừ mẹ sang con trong tử cung hoặc khi sinh.
Trên thực tế, Thời gian ủ bệnh tùy thuộc vào cơ địa mỗi người. Nếu sức đề kháng của cơ thể kém, thời gian phát bệnh càng nhanh, khoảng 10 ngày. Nếu có thể khỏe mạnh, sức đề kháng tốt thì thời gian ủ bệnh sẽ lâu, có thể kéo dài tới 3 tháng. Có một số trường hợp đặc biệt, thời gian ủ bệnh có thể kéo dài tới hàng tháng thậm chí đến hơn 1 năm.
Giang mai có rất nhiều biến chứng, chúng có thể gây nguy hiểm cho tính mạng người bệnh. Một số biến chứng nguy hiểm là viêm động mạch chủ, phình động mạch chủ, bại liệt toàn thân, rối loạn tâm thần, viêm gan, viêm màng não…có thể tử vong. Giang mai bẩm sinh có thể gây tử vong cho thai nhi hoặc dị dạng thai sau khi sinh.
Xoắn khẩn giang mai( nguồn internet)
Các giai đoạn phát triển của giang mai
Giang mai phát triển qua 4 giai đoạn:
– Giai đoạn 1 :
Đây là giai đoạn rất quan trọng để phát hiện và điều trị kịp thời. Khoảng 3-90 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh (trung bình 21 ngày), sẽ xuất hiện tổn thương da ở các điểm tiếp xúc. Vết loét xuất hiện ở những nơi tiếp xúc với xoắn khuẩn giang mai, thường là ở bộ phận sinh dục như: môi lớn, môi bé, âm đạo, cổ tử cung, quy đầu, dương vật hoặc trực tràng. Tổn thương này được gọi là săng là một dạng viêm loét, có đặc điểm nông, hình tròn hay bầu dục kích thước 0.3 đến 3 cm,bờ nhẵn, màu đỏ, không ngứa, không đau, không có mủ; đáy vết loét thâm nhiễm cứng và kèm theo nổi hạch hai bên vùng bẹn, cứng và cũng không đau. Các triệu chứng trên có thể tự biến đi sau 3 đến 6 tuần lễ kể cả không điều trị nên nhiều người tưởng lầm là khỏi bệnh nhưng thực sự là vi khuẩn lúc đó đã vào máu, bệnh vẫn tiếp tục phát triển với những biểu hiện khác.
– Giai đoạn 2:
Giai đoạn 2 xảy ra từ 4 đến 10 tuần sau giai đoạn 1. Giai đoạn này có rất nhiều biểu hiện khác nhau, ví dụ như: nốt ban đối xứng, màu hồng như hoa đào (đào ban) không ngứa trên toàn thân hoặc tứ chi bao gồm cả lòng bàn tay, bàn chân , hình ảnh đào ban màu đỏ hồng hoặc hồng tím như cánh hoa đào, ấn vào thì mất, không nổi cao trên mặt da, không bong vảy và tự mất đi. Thường khu trú hai bên mạng sườn, ngực, bụng, chi trên. Đào ban xuất hiện dần trong vòng 1 đến 2 tuần, tồn tại không thay đổi trong vòng 1 -3 tuần sau đó nhạt màu dần rồi mất đi.
Hoặc bệnh có thể làm xuất hiện các mảng sẩn, nốt phỏng nước, vết loét ở da và niêm mạc. Mảng sẩn, sẩn các loại, có nhiều kích thước khác nhau, như bằng hạt đỗ, đinh gim, hoặc sẩn hình liken, ranh giới rõ ràng màu đỏ như quả dâu, không liên kết với nhau, thường hay bong vảy và có viền da ở xung quanh sẩn, nếu các sẩn có liên kết với nhau sẽ tạo thành các mảng, hay sẩn mảng, các sản ở kẽ da do bị cọ sát nhiều có thể bị trợt ra, chảy nước, trong nước này có chứa rất nhiều xoắn khuẩn nên rất dễ lây khi tiếp xúc với những bệnh nhân này. Sẩn mủ ít gặp hơn đào ban và các loại sẩn trên, chủ yếu ở những người nghiện rượu, trông giống như viêm da mủ nông và sâu. Tại các khu vực ẩm ướt của cơ thể (thường là âm hộ hoặc bìu), phát ban trở nên bằng phẳng, rộng, màu trắng, hoặc các thương tổn giống như mụn cóc.
Biểu hiện bệnh giang mai( nguồn internet)
Các triệu chứng khác thường gặp ở giai đoạn này bao gồm sốt, đau họng, mệt mỏi, sụt cân, đau đầu, nổi hạch. Một số trường hợp hiếm gặp có thể kèm theo viêm gan, thận, viêm khớp, viêm màng xương, viêm dây thần kinh thị giác, viêm màng bồ đào, và viêm giác mạc kẽ. Các triệu chứng này thường tự biến mất sau 3-6 tuần.
– Giai đoạn 3:
Giang mai tiềm ẩn được xác định khi có bằng chứng huyết thanh của bệnh nhưng không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh. Giai đoạn này chia làm 2 loại:
Thời gian tiềm ẩn dưới 1 năm sau giai đoạn 2 (sớm) Giang mai tiềm ẩn sớm có thể tái phát các triệu chứng bệnh
Thời gian tiềm ẩn kéo dài hơn 1 năm sau giai đoạn 2 (muộn) giang mai tiềm ẩn muộn không có triệu chứng và không lây bằng giang mai tiềm ẩn sớm.
– Giai đoạn 4:
Giang mai giai đoạn 3 có thể xảy ra khoảng 3-15 năm sau những triệu chứng của giai đoạn 1 và được chia thành ba hình thức khác nhau: củ giang mai, giang mai thần kinh, giang mai tim mạch.
+ Củ giang mai: Xuất hiện từ 1-46 năm sau khi nhiễm bệnh (trung bình 15 năm), có hình cầu hoặc mặt phẳng không đối xứng, màu đỏ như mận, hơi ngả tím, kích thước bằng hạt ngô, mật độ chắc, ranh giới rõ ràng, các củ giang mai tiến triển không lành tính, nhất thiết hoại tử hoặc hoại tử teo hoặc tạo loét, rất chậm lành và ít lây hơn, sau khi khỏi thường để lại sẹo. Nếu củ, gôm khu trú vào các tổ chức quan trọng và không được điều trị sẽ đe doạ tính mạng bệnh nhân.
+ Giang mai thần kinh: Là bệnh liên quan đến hệ thống thần kinh trung ương. Nó có thể xảy ra sớm: không có triệu chứng hoặc biểu hiện lâm sàng bằng viêm màng não, hay sự phân ly giữa biến đổi dịch não tủy đã rõ rệt và triệu chứng lâm sàng còn thô sơ. Hoặc xảy ra muộn: gây ra tổn thương ngoài viêm màng não, mạch máu não, còn tổn thương não khu trú hoặc tổn thương thoái hóa ở não. Giang mai thần kinh thường xảy ra 4-25 năm sau khi nhiễm bệnh. Bệnh có thể gây suy nhược trầm cảm, rối loạn ý thức từng thời kỳ, động kinh, đột quỵ hay gây ra ảo giác đối với người bệnh.
+ Giang mai tim mạch: Thường xảy ra 10-30 năm sau khi nhiễm bệnh. Các biến chứng thường gặp nhất là phình mạch
Giang mai gây nguy hiểm đến tính mạng nhiều nhất ở gia đoạn 4 và nếu không kịp thời chữa trị sẽ dễ dàng gây đến tử vong.
Khám và điều trị
Xét nghiệm sớm sau khi có hành vi nguy cơ:
– Ngay sau khi có hành vi nguy cơ lây nhiễm bệnh giang mai hãy đến gặp các bác sĩ chuyên khoa để làm các xét nghiệm như Xác định xoắn khuẩn giang mai bằng kháng thể IGM
– Xác định xoắn khuẩn giang mai bằng kháng thể IGM là phương pháp mới chẩn đoán bệnh giang mai những năm gần đây. Kháng thể IGM là globulin miễn dịch, có độ nhạy cao khi chẩn đoán bệnh giang mai.
Điều trị sớm khi mới bắt đầu có biểu hiện: Lựa chọn đầu tiên cho việc điều trị các bệnh giang mai không biến chứng là một liều duy nhất penicilli G. Doxycycline và tetracycline cũng là sự lựa chọn thay thế, tuy nhiên không thể sử dụng ở phụ nữ mang thai. Ceftriaxone có thể có hiệu quả tương tự như điều trị bằng penicillin.
Điều trị khi đã có biến chứng thì sau điều trị cần có những biện pháp để phục hồi các tạng bị xoắn khuẩn gây tổn thương:
Các tạng bị xoắn khuẩn giang mai gây nên cần có những tác động tích cực và biện pháp phục hồi trở lại sau điều trị, dựa trên cơ sở y học để đảm bảo các chức năng cũng như hệ thống hoạt động mang tính thống nhất của cơ thể.
Khám sức khỏe định kỳ sau điều trị: Sau khi kết thúc liệu trình điều trị bệnh nhân cần thường xuyên tới khám, xét nghiệm định kì. Nhằm phát hiện sớm giang mai có tái phát hay có chúng vẫn còn tồn tại trong cơ thể chúng ta hay không. Từ đó có có thể yên tâm hoặc được điều trị sớm và khắc chế nếu có sẽ ngăn chặn được những tác hại, tổn thương do vi khuẩn giang mai gây nên. Thông thường nên tái khám liên tục trong 3 năm gần sau điều trị.
Hiệu quả điều trị phụ thuộc vào từng giai đoạn bệnh: Ở những người bị giang mai thì trong những giai đoạn đầu bệnh tự hết hiểu hiện sau vài tuần làm người bệnh nhầm tưởng là đã khỏi. Nhưng đến giai đoạn cuối nếu không được điều trị thì kết thúc của bệnh luôn là sự tử vong của người bị nhễm. Vì vậy việc điều trị sớm ở những giai đoạn đầu khi bệnh chưa có biến chứng thì người bệnh có thể khỏi hoàn toàn, nhưng nếu để đến khi bệnh đã có biến chứng thì chỉ hạn chế được bệnh mà rất khó phục hồi các thương tổn mà xoắn khuẩn gây ra cho những tạng mà nó đã phá hủy.
Trong những giai đoạn đầu bệnh tự hết hiểu hiện trong vài tuần làm người bệnh nhầm tưởng là đã khỏi. Nhưng đến giai đoạn cuối nếu không được điều trị thì kết thúc của bệnh luôn là sự tử vong của người bị nhễm.
Các giai đoạn phát triển của giang mai.
Theo NTD