Tổng quan về thiểu ối
Thiểu ối là khi lượng nước ối giảm so với lượng nước ối bình thường tính theo tuổi thai và ở dưới đường percentile thứ 5. Thai phụ bị thiểu ối sẽ khiến tử cung bị giảm sút lượng máu nuôi thai nhi. Nếu quá trình này kéo dài sẽ dẫn tới hậu quả thai suy dinh dưỡng và nghiêm trọng hơn là thai chết lưu trong tử cung hoặc chết ngay lúc chuyển dạ.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Nguyên nhân thiểu ối
Có rất nhiều yếu tố gay nên tình trạng thiểu ối ở thai phụ. Trong đó nguyên nhân được xác định thông thường là do:
– Thai phụ bị rò rỉ màng ối
– Hệ tiết niệu và thận của thai nhi không phát triển khỏe mạnh (hội chứng Potter) hoặc đường dẫn nước tiểu bị đóng, bé sẽ không thể duy trì cơ chế nuốt nước – đi tiểu như bình thường. Do đó bào thai sẽ nuốt nước ối vào nhưng lại không thải ra được. Kết quả là quá trình tái tạo nước ối bị gián đoạn. Dị tật tim thai nhi cũng gây nên tình trạng tương tự.
– Tình trạng thai quá ngày, thai già tháng cũng khiến nước ối bị hao hụt. Theo thống kê, cứ khoảng 8 thai phụ bị quá ngày sinh 2 tuần thì có 1 người ở trong tình trạng thiểu ối.
– Thai phụ mắc các chứng bệnh như tiểu đường, cao huyết áp, lupus và một số bệnh mãn tính khác.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
– Thai phụ mang song thai, đa thai hoặc đang dùng thuốc tân dược liều cao để trị bệnh.
– Nhưng cũng có đến khoảng 30 % trường hợp không tìm thấy nguyên nhân gây thiểu ối.
Dấu hiệu nhận biết thiểu ối
– Chiều cao tử cung thường nhỏ hơn so với tuổi thai rõ, số đo thường thấp và có chiều hướng đi xuống so với đường chuẩn.
– Thai thường cử động yếu, giảm hẳn dấu hiệu thai máy. Khi thực hiện 4 thủ thuật của Leopol có cảm giác thấy rõ các phần thai nằm sát dưới bàn tay mà không cảm thấy có nước ối, khó làm động tác di động đầu thai nhi.
-Siêu âm có chỉ số nước ối thấp, thường dưới đường percentile thứ 5 so với tuổi thai hoặc khi tuổi thai sau 35 tuần có chỉ số nước ối (AFI) ≤5 cm, hoặc là buồng ối lớn nhất có độ sâu ≤ 2 cm
Cách khắc phục
Để khắc phục tình trạng thiểu ối chủ yếu vẫn là truyền dung dịch vào đường tĩnh mạch, truyền dịch vào buồng ối. Phương pháp bổ sung nước cho sản phụ có thể làm gia tăng lượng ối, không can thiệp vào sản phụ và thai nhi và dễ thực hiện với liều lượng 2 – 3 lít nước mỗi ngày.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Đối với thai dưới 36 tuần: Nếu thiểu ối mà không có dị dạng bẩm sinh lớn ở các cơ quan tiết niệu, tiêu hoá, thần kinh… có thể là do suy hay tắc một phần tuần hoàn tử cung – rau thai. Cho đến nay vẫn chưa có phương pháp điều trị nào được cho là đặc hiệu. Trong những trường hợp này thì nên khuyên bệnh nhân nằm nghiêng trái, kiểm soát các bệnh lý đi kèm, đảm bảo chế độ dinh dưỡng đầy đủ nhằm cải thiện tuần hoàn tử cung – rau thai nhằm cố gắng giữ thai phát triển đến trên 35- 36 tuần.
– Trong các trường hợp thiểu ối và có các dị dạng cấu trúc thai nhi, cần phải làm thêm các xét nghiệm để xác định các bất thường đó có khả năng điều trị hay không, cũng như có bất thường về nhiễm sắc thể hay không để có quyết định điều trị giữ thai hay đình chỉ thai nghén.
– Trường hợp thai chậm phát triển trong tử cung mà không tìm được nguyên nhân thì thái độ xử trí tuỳ thuộc vào sự diễn tiến của tình trạng suy thai trong tử cung. Thai chậm phát triển trong tử cung ở quý ba và có thiểu ối là dấu hiệu nặng của tình trạng chậm tăng trưởng thai. Cần cân nhắc khả năng chấm dứt thai kỳ được khi có tình trạng suy thai và/hoặc phổi thai nhi đã trưởng thành.
Đối với thai trên 36 tuần: Khi đã xác định thai đủ tháng và biểu hiện thiểu ối thì cần được theo dõi bằng monitoring để theo dõi tim thai và cơn co tử cung. Tùy vào tình trạng thai nhi mà bác sĩ sẽ chỉ định mổ lấy thai hay tiếp tục theo dõi. Trong trường hợp nếu mực nước ối dưới 60 mm thì mổ lấy thai chủ động sẽ được ưu tiên.
Thiểu ối gây ra những hậu quả nặng nề cho thai nhi, làm cho thai có thể kém phát triển cũng như gây ra tâm lý hoảng sợ, lo lắng cho thai phụ. Thai phụ bị thiểu ối thường phải sinh con bằng phương pháp mổ lấy thai. Điều đó cho thấy vấn đề chăm sóc tiền sản, chẩn đoán sớm tình trạng thiểu ối là rất cần thiết nhằm xử trí kịp thời, giúp hạn chế những ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của trẻ.
Theo NTD