Tổng quan
– Giang mai (syphilis) là một bệnh lây truyền qua đường tình dục do xoắn khuẩn Treponema pallidum (xoắn khuẩn giang mai) gây ra. Bệnh giang mai không chỉ giới hạn ở những bộ phận sinh dục, mà còn có thể lây truyền qua các tiếp xúc gần khác.
– Đường lây truyền của Giang mai là qua da và niêm mạc bị xây xát, qua đường máu, chủ yếu là qua đường quan hệ tình dục với người đang mắc bệnh Giang mai trong thời kì lây bệnh. Nhưng nó cũng có thể lây qua hôn, tiếp xúc gián tiếp, cho trẻ bú.
Các giai đoạn của bệnh giang mai
Giai đoạn 1
Ảnh minh họa: Nguồn internet
– Xuất hiện các Săng giang mai là các vết loét xuất hiện ở những nơi tiếp xúc với xoắn khuẩn giang mai. Thường là ở bộ phận sinh dục như: , , , , , hoặc .
– Tổn thương này là một dạng viêm loét, có đặc điểm nông, hình tròn hay bầu dục kích thước 0.3 đến 3cm, bờ nhẵn, màu đỏ, không ngứa, không đau, không có mủ; đáy vết loét thâm nhiễm cứng và kèm theo nổi hạch hai bên vùng bẹn, cứng và cũng không đau.
– Các triệu chứng trên có thể tự biến đi sau 3 đến 6 tuần kể cả không điều trị nên nhiều người tưởng lầm là khỏi bệnh nhưng thực sự là vi khuẩn lúc đó đã vào máu, bệnh vẫn tiếp tục phát triển với những biểu hiện khác.
Giai đoạn 2
– Xảy ra từ 4 đến 10 tuần sau giai đoạn 1.Các biểu hiện: Ban đối xứng, màu hồng như hoa đào (đào ban) không ngứa, đào ban màu đỏ hồng hoặc hồng tím như cánh hoa đào, ấn vào thì mất, không nổi cao trên mặt da, không bong vảy và tự mất đi. Thường khu trú hai bên mạng sườn, ngực, bụng, chi trên.
– Bệnh có thể làm xuất hiện các mảng sẩn, nốt phỏng nước, vết loét ở da và niêm mạc. Nốt sẩn có nhiều kích thước khác nhau, không liên kết với nhau, thường hay bong vảy và có viền da ở xung quanh sẩn. Nếu các sẩn có liên kết với nhau sẽ tạo thành các mảng, các sẩn ở kẽ da do bị cọ sát nhiều có thể bị trợt ra, chảy nước, trong nước này có chứa rất nhiều xoắn khuẩn nên rất dễ lây khi tiếp xúc với những bệnh nhân này.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
– Sẩn mủ ít gặp hơn đào ban và các loại sẩn trên, chủ yếu ở những người nghiện rượu, trông giống như viêm da mủ nông và sâu.
-Tại các khu vực ẩm ướt của cơ thể (thường là âm hộ hoặc bìu), phát ban trở nên bằng phẳng, rộng, màu trắng, hoặc các thương tổn giống như mụn cóc.
– Các triệu chứng khác thường gặp ở giai đoạn này bao gồm sốt, đau họng, mệt mỏi, sụt cân, đau đầu, nổi hạch. Các triệu chứng này thường tự biến mất sau 3-6 tuần.
Giai đoạn tiềm ẩn
– Giang mai tiềm ẩn được xác định khi có bằng chứng huyết thanh của bệnh nhưng không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh.
Giai đoạn này chia làm 2 loại: Thời gian tiềm ẩn dưới 1 năm sau giai đoạn 2 (sớm) và thời gian tiềm ẩn kéo dài hơn 1 năm sau giai đoạn 2 (muộn). Giang mai tiềm ẩn sớm có thể tái phát các triệu chứng bệnh, giang mai tiềm ẩn muộn không có triệu chứng và không lây bằng giang mai tiềm ẩn sớm.
Giai đoạn 3
Giang mai giai đoạn 3 có thể xảy ra khoảng 3-15 năm sau những triệu chứng của giai đoạn 1 và được chia thành ba hình thức khác nhau: giang mai thần kinh (6,5%), giang mai tim mạch (10%) và củ giang mai (15%). Những người bị bệnh giang mai giai đoạn này không lây bệnh.
Củ giang mai : Xuất hiện từ 1- 46 năm sau khi nhiễm bệnh (trung bình 15 năm), có hình cầu hoặc mặt phẳng không đối xứng, màu đỏ như mận, hơi ngả tím, kích thước bằng hạt ngô, mật độ chắc, ranh giới rõ ràng.
Giang mai thần kinh
Ảnh minh họa: Nguồn internet
– Bệnh liên quan đến hệ thống , xảy ra 4- 25 năm sau khi nhiễm bệnh. Nó có thể xảy ra sớm: không có triệu chứng hoặc biểu hiện lâm sàng bằng viêm màng não, hay sự phân ly giữa biến đổi dịch não tủy đã rõ rệt và triệu chứng lâm sàng còn thô sơ. Hoặc xảy ra muộn: Gây ra tổn thương ngoài viêm màng não, mạch máu não, còn tổn thương não khu trú hoặc tổn thương thoái hóa ở não.
– Giang mai thần kinh thường xảy ra 4-25 năm sau khi nhiễm bệnh. Bệnh có thể gây suy nhược trầm cảm, rối loạn ý thức từng thời kỳ, động kinh, đột quỵ hay gây ra ảo giác đối với người bệnh
Giang mai tim mạch: Thường xảy ra 10-30 năm sau khi nhiễm bệnh. Các biến chứng thường gặp nhất là phình mạch.
Biến chứng của bệnh
Rối loạn cảm giác: Người bệnh đau nhức, đau nhói như bị dao cắt, như bị giật mạnh hay như bị đốt ở chân, cũng có thể đâu tổng thế từ trên xuống, ở giai đoạn cuối người bệnh đi lại khó khăn
Rối loạn chức năng co thắt: Tổn thương đốt thứ 2 -4 ở lưng, ảnh hưởng cảm giác ở bang quang, buồn tiểu mà không có nước tiểu, dẫn đến bí tiểu và tiểu không kiểm soát.
Biểu hiện ở mắt, khớp, nội tạng
– Biểu hiện ở mắt: Dị thường ở đồng tử mắt, đồng tử nhỏ hẹp, không bình thường, mất phản xạ ánh sáng, nhưng vẫn tồn tại phản xạ điều tiết. Đại đa phần cơ mắt tê bì, mí mắt không đồng, thần kinh thị giác bị tổn hại.
– Bệnh khớp: Viêm khớp xương, các khớp không ngừng bị tổn hại dẫn đến cấu trúc xương bị tổn hại, gây thoát vị và gẫy xương.
– Nguy hiểm ở nội tạng: Đau bụng trên, lồng ngực co thắt, kèm theo nôn ói, kiệt sức và đau da bụng, ỉa chảy. Cổ họng và thanh quản xuất hiện triệu chứng khó nuốt và hô hấp khó khăn; trực tràng mót buốt; khó khăn trong việc bài tiết nước tiểu.
Y học ngày càng phát triển, bệnh giang mai đã qua thời kì là loại bệnh khó chữa của nhân loại, nhưng nếu không phát hiện và chữa trị kịp thời sẽ dễ dẫn đến các biến chứng hoặc bệnh phát sinh gây những biến chứng này không chỉ gây khó khăn trong việc điều trị Giang Mai mà còn gây tổn hại lớn đến cơ thể người bệnh. Khi gặp bất cứ dấu hiệu nào trong 4 giai đoạn của Giang mai, người bệnh cần chủ động đi khám và điều trị sớm, tránh để bệnh tiến triển.
Các giai đoạn phát triển của bệnh giang mai.
Theo NTD